Gia quyến Đa_Nhĩ_Cổn

Thê thiếp

Đa Nhĩ Cổn khi còn sống cưới và nạp nhiều thê thiếp. Xã hội Nữ Chân thời Hậu Kim, thịnh hành chế độ "Một chồng, nhiều vợ, nhiều thiếp", nên những vị [Kế Phúc tấn] đều như cách gọi "Vợ kế" ở Việt Nam, đều là chính thất, nhưng không phải sau khi vợ cả mất mới gọi như vậy, mà gần như là một dạng Bình thê. Bên cạnh đó, Ý Tĩnh Đại Quý phi sau khi tái giá Hoàng Thái Cực, có nuôi dưỡng một nữ tử Mông Cổ [Thục Sài; 淑侪] (cũng có thể là con gái của Lâm Đan hãn) được hứa gả cho Đa Nhĩ Cổn. Hai người ở Sùng Đức năm thứ 5 (1640) thành hôn, nhưng sau đó Thục Sài không được ghi lại cụ thể nữa, không rõ đã bỏ hay mất sớm mà không lưu lại trên danh sách thê thiếp Đa Nhĩ Cổn.

Danh phậnHọ tênGhi chú
Chính Phúc tấnBác Nhĩ Tế Cát Đặc thị
(博爾濟吉特氏)
Xuất thân từ bộ tộc Mông Cổ Khoa Nhĩ Thấm, con gái của Cát Tang A Nhĩ Trại (吉桑阿爾寨), cháu gái Bối lặc Minh An. Năm Thiên Mênh thứ 9 (1624), thành hôn[28][29]. Về sau không còn ghi chép gì.
Đích Phúc tấnBác Nhĩ Tế Cát Đặc thị
(博爾濟吉特氏)
Xuất thân Mông Cổ Khoa Nhĩ Thấm bộ, con gái Thai cát Sách Nạp Mục (索纳穆) cùng Khoa Nhĩ Thấm Đại phi. Có khả năng tên là Ba Đặc Mã (巴特玛). Bà vốn là em gái cùng mẹ với Hiếu Đoan Văn Hoàng hậu, và là cháu gái của Hiếu Trang Văn Hoàng hậu[30], nhưng dân gian thời Dân Quốc đồn bà là chị em họ với Hiếu Trang Văn Hoàng hậu. Cùng với Hiếu Trang Văn Hoàng hậu được gọi thành "Đại Ngọc Nhi", bà được gọi là Tiểu Ngọc Nhi (小玉儿).

Năm Thiên Mệnh thứ 9 (1624), bà cùng Đa Nhĩ Cổn thành hôn, khi ấy Đa Nhĩ Cổn chỉ 13 tuổi, nên bà có lẽ tương đương. Bà mất trước Đa Nhĩ Cổn vài tháng, được Đa Nhĩ Cổn ban thụy là Kính Hiếu Trung Cung Chính Cung Nguyên phi (敬孝忠恭正宮元妃).

Sau khi Đa Nhĩ Cổn được truy thụy Hoàng đế, bà được cải thụy hiệu thành Kính Hiếu Trung Cung Tĩnh Giản Từ Huệ Trợ Đức Tá Đạo Nghĩa Hoàng hậu (敬孝忠恭靜簡慈惠助德佐道義皇后).

Kế Phúc tấnĐông Giai thị
(佟佳氏)
Xuất thân Kiến Châu Nữ Chân, con gái Thượng thư Mông Cách Đồ (蒙格圖).
Kế Phúc tấnBác Nhĩ Tế Cát Đặc thị
(博爾濟吉特氏)
Xuất thân Mông Cổ Khoa Nhĩ Thấm bộ, con gái của Đài cát Căn Đỗ Nhĩ (根杜爾台吉).
Kế Phúc tấnBác Nhĩ Tế Cát Đặc thị
(博爾濟吉特氏)
Xuất thân Mông Cổ Khoa Nhĩ Thấm bộ, con gái của Đài cát Lạp Bố Hi Tây (拉布希西台吉).
Kế Phúc tấnBác Nhĩ Tế Cát Đặc thị
(博爾濟吉特氏)
Xuất thân Mông Cổ Khoa Nhĩ Thấm bộ, con gái của Thai cát Sách Nạp Mục.

Bà là tộc cô của Hiếu Trang Văn Hoàng hậu, và là em gái cùng cha với Kính Hiếu Nghĩa Hoàng hậu. Ban đầu, bà là là thê tử của Túc Thân vương Hào Cách, sau khi Hào Cách bị tội, bà bị nạp làm thê tử của Đa Nhĩ Cổn.

Kế Phúc tấnLý Ái Thục
(李愛淑)
Triều Tiên công chúa, bà vốn là con gái của Cẩm Lâm quân Lý Khải Dận (李愷胤) - cháu 4 đời của Triều Tiên Thành Tông. Năm 1650 Đa Nhĩ Cổn phái người sang Triều Tiên cầu hồn, bà được Triều Tiên Hiếu Tông phong làm Nghĩa Thuận Công chúa (義順公主). Sau khi Đa Nhĩ Cổn qua đời, nhà Thanh theo thỉnh cầu của Cẩm Lâm quân mà đưa bà về nước.
ThiếpCông Tề Đặc thị
(公齊特氏)
Xuất thân từ bộ tộc Sát Cáp Nhĩ.
ThiếpBác Nhĩ Tế Cát Đặc thị
(博爾濟吉特氏)
Xuất thân Mông Cổ Khoa Nhĩ Thấm bộ.
ThiếpTế Nhĩ Mạc Đặc thị
(濟爾莫特氏)
Xuất thân không rõ.
ThiếpLý thị
(李氏)
Triều Tiên tông thất nữ, con gái của Lý Thế Tự (李世緒).

Hậu duệ

  1. Trưởng nữ: Đông Nga (東莪), do Trắc Phúc tấn Lý thị sinh ra, con gái thân sinh độc nhất.
  2. Dưỡng tử: Đa Nhĩ Bác (多爾博), con trai thứ năm của Đa Đạc, mẹ là Kế Phúc tấn Đạt Triết - chị/em gái của Kính Hiếu Nghĩa Hoàng hậu. Năm 1650 tập tước Duệ Thân vương, 1 năm sau cách tước quy tông. Năm 1657 phong làm Đa La Bối lặc.